Năm 1989, tôi về báo Hà Nội mới làm việc, mới hay nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn đã từng là phó tổng biên tập ở đây. Nhưng thực ra tôi lại quen biết ông từ trước đó nhiều năm, khi ông làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ Hà Nội kiêm giám đốc Nhà Xuất bản Hà Nội vào những năm cuối thập niên 70. Lần đầu gặp mặt, tôi rất ngạc nhiên vì thấy ông ăn trầu như những bà già thời đó. Bã trầu đỏ quạch trong miệng làm đôi môi ông thắm lại. Tôi chỉ nghĩ ông ăn trầu để cho chắc răng hoặc chống sâu răng, chứ không cốt làm cho đôi môi đỏ như đàn bà.
Sau này có dịp cộng tác với tờ báo Người Hà Nội, khi ấy báo chỉ ra hàng
tháng khổ nhỏ, tôi hay in thơ và thi thoảng được vào phòng thu của Đài
phát thanh Hà Nội, ở phố hàng Dầu, đọc thơ dưới sự dẫn giắt của chính
nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn. Ông có duyên trò chuyện và tạo cảm hứng cho các
cây bút trẻ như chúng tôi hồi đó rất say mê sáng tác. Giọng nói của ông
ấm áp, truyền cảm tạo không khí thân thiện với mọi người. Thời gian này,
ông đã nổi tiếng với các tác phẩm, như bộ sách dịch "Ký Sự Lên Kinh",
năm 1972 cùng tập truyện "Năm Đời Tổng Mỹ", năm 1973...
Có dạo, tôi thường gặp ông ở phòng đọc tại Thư viện Quốc gia và thi
thoảng trò chuyện với nhau, khi cùng ra nghỉ giải lao ở vườn hoa trước
cửa, nên nhiều ký ức vẫn còn chưa phai trong tâm hồn tôi. Một lần, ông
tâm sự với tôi về một số người hay thắc mắc và gây mất đoàn kết trong cơ
quan, đặc biệt có trường hợp khá gay gắt, phải xử lý kỷ luật mới có thể
ổn định được mọi chuyện. Nghe xong, tôi gàn ông đừng nặng tay mà chỉ
nhẹ nhàng xử lý theo đạo phật là "Lấy ân báo oán thì oán oán tiêu tan",
biết đâu có thể cải tạo được ngưởi ta. Nhưng thật trớ trêu thay, người
ấy không những chẳng hề dừng lại. Đó là những chuỗi ngày chẳng vui vẻ gì
với nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn. Mãi về sau, tôi mới thấm thía các cụ đã tổng
kết rất hay rằng: "Non sông dễ chuyển, bản tính khó rời". Và, những bản
tính rắc rối ấy còn tự giác liên kết với nhau để phát huy sức mạnh, làm
cho mọi chuyện, mỗi ngày thêm mất phương hướng. Nhưng bất ngờ, chỉ ít
lâu sau nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn xin nghỉ rồi về hưu, năm 1984, với nhiều
nỗi niềm còn ẩn chứa trong lòng. Khi đó ông vừa tròn 65 tuổi. Người ta
nói ông rũ bỏ cuộc chơi, nhưng tôi lại cho đó là một hành động đúng
nghĩa với phẩm chất một nhà nho, một nhân sĩ biết nhường nhịn, chứ không
muốn gây thù chuốc oán cho bất cứ ai. Từ đó, nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn ra
sức làm việc, cần mẫn như một chú ong thợ vậy. Sách của ông liên tiếp
đến tay người đọc những năm sau đó, như "Chinh Phụ Ngâm"; "5000 nghìn
thành ngữ Hán- Việt", năm 1993; "Chợ Viềng- Hội phủ", năm 1993; "Từ vựng
chữ số và số lượng", năm 1994; "Hồ Xuân Hương", năm 1994; "Nguyễn Bính
và tôi", năm 1996; "Tổng tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du", năm 1996...
Và thật đặc biệt, nói đến nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn, mọi người đều khen nghệ
thuật tranh thư pháp, mà ông đã theo đuổi sáng tạo suốt ba mươi năm
qua. Nghệ thuật thư pháp đối với ông, ngoài chuyện vẽ, còn là nơi ông
gửi gắm nhiều tâm trạng còn vương vất bụi đời đã trải nghiệm qua thời
gian. Ông không chỉ vẽ chữ cho thật đẹp, mà còn ẩn chứa cảm xúc và những
suy tư về nỗi đời. Chữ của ông trước mắt mọi người đã trở thành những
bức tranh sinh động có ý tứ lạ nhưng không khó hiểu. Bên cạnh nét tài
hoa, tinh tế của con chữ, ông còn thể hiện những nét hóm hỉnh với ý tứ
đầy biến hóa. Đặc biệt bức tranh chữ "Ngựa" đã đem lại cảm xúc bất ngờ
cho người xem. Đã có nhiều khách hàng đặt ông vẽ hình chữ này để treo
chơi ngày tết. Còn khi xe bức tranh chữ "Đạo" của ông, ai cũng phải ồ
lên ngạc nhiên vì chữ này hiện lên trước mắt mọi người lại là một bức
tranh "Nude" với nét vẽ rất đơn giản nhưng lại vô cùng kỳ thú. Ông lấy
chữ "Thủ" ở giữa, cùng nét quai xước hình dải lụa, uốn lượn rất gợi cảm.
Đó là hình người múa lụa được cách điệu nhưng vẫn rõ đó là chữ "Đạo".
Cách chuyển ý rất thông minh, từ cái mà người đời coi trọng nhất đó là
"Đạo" bất ngờ bị ông đồ Bùi Hạnh Cẩn đưa trở về cái bản ngã "Đời" trong
tranh. Tôi nghĩ cách chơi chữ của ông có một không hai trên đời này.
Ông đã triển lãm tranh thư pháp của mình đến vài lần rồi, từ Hà Nội đến Thành Phố Hồ Chí Minh và tết Kỷ Sửu năm nay, dù đã bước qua tuổi 90 mà ông vẫn đi viết chữ tặng mọi người. Thế là mới đây, tôi đến thăm ông với những nỗi niềm xao xuyến theo tháng năm. Khi tôi nhắc lại những chuyện ân oán trong nỗi đời, một thời vướng bận, thì ông ngồi lặng đi, đôi mắt lim dim. Đột nhiên, ông chậm chạp đứng dậy lấy bức tranh chữ "Thời tiết" cho tôi xem, rồi giảng giải về hình chữ được cách điệu thế nào. Ông đọc to câu thơ viết ở dưới:
" 10 năm Thời Tiết ai lường được
Cả đến ân tình cũng nắng mưa..."
Đến lúc này tôi mới hiểu thâm ý trách khéo của ông về những sự đời trớ
trêu, và nhận biết mọi điều đều có thể xảy ra. Tôi nhấp chén trà nóng
với hương bay ngan ngát, lan tỏa trong phòng tranh, và thấy mình như
nhập hồn vào cái thanh thản, dịu dàng và ấm áp trong từng nét chữ và
hình tượng trong tranh của ông. Sau đó, ông dẫn tôi đến một bức tranh
treo ở bên cửa sổ, có dòng chữ : Danh, lợi, tình. Bức tranh gồm hai phần
chữ để tạo hình. Vòng tròn ngoài là hình nối liên tiếp ba chữ Hán Nôm:
Danh Lợi, Tình. Còn ở giữa là hình tam giác được vẽ cũng chỉ ba chữ Danh
Lợi, Tình bằng chữ quốc ngữ. Ông hỏi tôi có nhận ra hình vẽ nói gì
không. Tôi ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Hình như con người ta thường khó thoát khỏi cái vòng kim cô danh, lợi, tình ở trên đời này.
Nhưng bất ngờ tôi tò mò hỏi:
- Chắc giờ đây nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn, đến tuổi 90, liệu đã thoát khỏi cái vòng kim cô này?
Ông mỉm cuời và thực lòng trả lời:
- Chưa! Tôi cũng vẫn loay hoay với ba chữ này nên mới viết ra để tự răn mình thôi.
Vậy ra, chữ với ông là lẽ đời đã trải nghiệm, là sự dằn vặt tu thân và
cũng còn là nỗi niềm tâm sự, chia sẻ với con người. Tôi sực nhớ đến
những hình mà ông đã từng vẽ để diễn tả, minh họa những bài thơ của cố
thi sĩ Nguyễn Bính viết tặng ông. Tôi tỏ ý muốn xem những bức tranh như
thế, ông nhanh nhẹn đi tới bàn vẽ lục tập tranh rồi rút ra bức "Hoa và
Rượu", rồi đọc khổ thơ cho tôi nghe:
"Bỏ lại vườn cam, bỏ mái gianh
Tôi đi gian díu với kinh thành
Hoa thơm mơ mãi vườn tiên giới
Chuốc mãi men cay rượu ái tình"
Sau đó ông mới cho tôi xem bức tranh chữ, hai chữ Hán Nôm có nghĩa "Hoa
và Rượu" được vẽ cách điệu tạo thành hình một bình rượu và một cánh hoa
đang rơi xuống. Ông cho biết có khá nhiều tranh chữ tạo hình của mình
đều hình thành từ ý thơ Nguyễn Bính. Điều này thật chí lý, bởi chính ông
là người hiểu biết nhiều chuyện và đã từng 15 năm sống chung một nhà
với người em họ của mình, nhà thơ Nguyễn Bính. Ông đã viết cuốn "Nguyễn
Bính và tôi" chính từ những kỷ niệm sâu sắc giữa hai người. Cuốn sách đã
kể ra khá nhiều chuyện còn khá bí ẩn đối với người đọc, đặc biệt là
những bóng hồng có liên quan tới nhiều tác phẩm của Nguyễn Bính. Nhiều
người tìm đọc và cuốn sách trở thành một tư liệu quý hiếm về nhà thơ tài
hoa và bạc mệnh này.
Tôi chợt nhớ một lý do nữa mà mình định kiểm chứng và nhìn lên đôi môi
nhà thơ xem có còn thắm tựa hồi nào, thì ông bật cười hiểu ý, rồi nói:
- Tôi vẫn ăn trầu mà. Ơ kìa! Đây này!
Rồi ông nhoẻn miệng cười để lộ hàm răng vẫn trắng và dều tăm tắp.
Ông còn khoe mình vẫn nhai xương gà được. Rõ thật lạ, vẫn giọng nói ấm
và vang như ngày nào, nếu không nhìn gương mặt ông, thì khó ai đoán đây
là một lão nho hơn 90 tuổi. Lại nữa, nếu nhìn nụ cười và hàm răng của
ông cũng chẳng thể có ai nghĩ ra đây là một cụ già ở tuổi thượng thượng
thọ. Chả thế, tôi nghe ông nói chuyện thì vẫn cứ nghĩ mình vừa gặp ông ở
phòng đọc thư viện về, như hồi nào còn trai trẻ. Ông đã truyền cho tôi
tinh thần lạc quan và có trách nhiệm với xã hội đúng như các bức tranh
ông vẽ.
Đột nhiên, ông kéo tôi vào cửa bếp và bảo tôi chụp ảnh cho ông với bức tranh chữ mới vẽ. Tranh có 3 hình tháp chữ "Kim" ghép thành chữ: "Hâm". Ông cười, chỉ vào chữ "Hâm", rồi nói:
- Tôi thế đấy!
Không hiểu sao tôi ngờ rằng ông lại có ẩn ý gì chăng khi đòi chụp ảnh
với chữ "Hâm". Thấy tôi ngước nhìn bức tranh chữ với vẻ tò mò thì ông ôn
tồn tâm sự, đây chính là sự biến tấu từ ba chữ "Kim" là vàng, được lồng
trong hình chóp nhọn, đó là những tháp hình chữ "Kim". Và khi chúng
được ghép với nhau tạo thành hình tháp to và đó chính là chữ "Hâm", và
theo nghĩa của người Hoa, người Nhật là hâm mộ, mến mộ, là tuyệt vời,
giầu có, chứ không phải là dở người. Do vậy nhiều người ở Trung Quốc hay
đặt tên con là "Hâm" vì lẽ đó. Rồi ông cười một cách hóm hỉnh, có vẻ
khoái chí vì cách đố chữ kiểu này. Tôi tỏ ý thán phục, nhưng ông lại tự
thú nhận khi nhắc lại rằng:
- Vậy đó! Tôi vẫn là lão già hâm vì đến tuổi này vẫn chưa thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn danh, lợi, tình mà.
Rồi ông cười khấy như tự giễu mình. Bất ngờ ông nghiêm sắc mặt khi thấy
tôi nâng máy ảnh hướng về phía chữ "Hâm" để chụp hình. Nhưng bỗng nhiên
tôi lại nhận ra trong cái nét đanh lại trên gương mặt ấy vẫn toát ra
chất hoạt kê và lạc quan trong ánh mắt và nụ cười. Bởi ông luôn luôn ung
dung tự tại và biết tự cuời chính mình. Và bên cạnh gương mặt ông nổi
bật lên chữ "Hâm" không hơn không kém. Khi ra về tôi mới giật mình nhận
ra rằng sao trên đời lại có một lão nho hâm đáng yêu đến thế ?
(20.09.2009)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét